15 nhà phê bình nghệ thuật đã khiến chúng ta thay đổi cách nhìn về thế giới

Hơn 1000 năm, con người đã cố gắng định nghĩa điều gì làm nên một tác phẩm nghệ thuật “tốt”.

 

Những nhân tố quyết định, như tính thực tế, vẻ đẹp, cách trang trí, ý tưởng nhân văn, đã đến rồi đi theo từng thời. Thế hệ nhà phê bình nghệ thuật mới đã thúc đẩy những biến chuyển đáng kể trong gu thưởng thức, và mãi mãi thay đổi cách nhìn của khán giả về những phong cách thẩm mỹ.

 

15 nhà phê bình dưới đây đã giúp diễn giải và hé mở những nghệ sĩ hứa hẹn có tầm nhìn sốc nổi, và đặt nền tảng cho nhận thức về các quy tắc. Danh sách này, phải thừa nhận rằng hầu như chỉ nói về người da trắng ở châu Âu và châu Mỹ. Hàng thế kỷ nay, họ đã áp đặt độc tài lên thế giới cách thưởng thức và trân trọng một tác phẩm nghệ thuật như thế nào. Nhiều tiếng nói phê bình đa dạng không chỉ đem đến những góc nhìn mới về nghệ thuật: Họ còn thay đổi cách ta nhìn thế giới, và vượt xa cả những bức tranh.

 

Tác giả: Alina Cohen

 

  1. Pliny cha (23-79)

Pliny the Elder, Natural History, 15th century. Photo via Wikimedia Commons.

Title page of Pliny, Natural History, published 1519. Courtesy of the Library of Congress.

Trong cuốn sách Natural History, nhà tự nhiên học người La Mã Pliny the Elder đã nói về động vật học, thiên văn học, thực vật học, và tất cả những chủ đề mà ông nghĩ rằng chúng đáng được ghi vào lịch sử, bao gồm vài chương dành tặng những người thợ, nghệ sĩ, và kiến trúc sư. Pliny tìm về nguồn gốc những bức tranh, cho rằng chúng được sinh ra khi con người cố gắng tái hiện lại cái bóng của chính mình. Các học giả đã giả thuyết rằng tác phẩm của Pliny đã ảnh hưởng đến Giorgio Vasari, người đã viết cuốn sách lịch sử nghệ thuật trứ danh 1000 năm về sau.

 

  1. Xie He (thế kỷ 6)

Hàng trăm năm trước, nghệ thuật rõ ràng là một cuộc thi đấu. Vào thế kỷ 6, nghệ sĩ Xie He đã phát triển ra “Sáu nguyên tắc” để xếp hạng các hoạ sỹ theo thứ bậc. Tuy vậy, chuẩn mực này cũng chỉ là chủ quan. Ví dụ như, “tính tác động đến tâm hồn” thể hiện một sức sống khó tả. Những chuẩn mực khác thì liên quan nhiều hơn đến kỹ thuật: “phương thức xương”, hay cách sử dụng cọ; bố cục; và, trong trường hợp nghệ sĩ sao chép một tác phẩm sẵn có, sự chính xác so với bản gốc. Các nguyên tắc của Xie He đã trường tồn rất lâu và vẫn được sử dụng để thẩm định tranh Trung Hoa cổ đến tận ngày nay.

 

  1. Giorgio Vasari (1511-1574)

Giorgio Vasari, Portrait of Giorgio Vasari, between 1571-74. Photo via Wikimedia Commons.

Giorgio Vasari, Cover of Lives of the Most Eminent Painters, Sculptors, and Architects, 1550. Photo via Wikimedia Commons.

Thường được cho là nhà sử gia về nghệ thuật đầu tiên, Giorgio Vasari còn cho ra đời những định kiến có tầm ảnh hưởng của mình. Tác phẩm năm 1550 của ông, Lives of the Most Eminent Painters, Sculptors, and Architects, tạo nên một danh sách (vô cùng thiên vị và phóng đại) về những gương mặt nghệ thuật quan trọng vào thời bấy giờ. Họ đều là người Ý, và đặc biệt nghiêng về Tuscan (Michelangelo, Giotto, Sandro Botticelli). Vasari còn tạo ra từ “Phục hưng”, thần thánh hoá sự trỗi dậy của văn hoá châu Âu từ thế kỷ 13 đến 16.

 

  1. Jonathan Richardson cha (1667-1745)

Jonathan Richardson, Juliana Boyle, Contess of Ailesbury (d. 1739), first half of 18th century. Photo via Wikimedia Commons.

Jonathan Richardson, Self-portrait, 1729. Photo via Wikimedia Commons.

Vào năm 1715, hoạ sỹ và nhà sưu tầm người Anh Jonathan Richardson the Elder viết tác phẩm được chấp nhận rộng rãi như một giả thuyết nghệ thuật đầu tiên bằng tiếng Anh. Richardson bắt đầu “Essay on the Theory of Painting” của ông bằng cách tìm kiếm điểm thiếu sót trong niềm tin về nghệ thuật: “Rất nhiều người, theo góc nhìn của tôi, cho rằng hội hoạ chỉ là sự thừa thãi để thoả mãn thị giác; hay hơn thế, rằng nó chứa đựng một chút sự hữu dụng đối với loài người.”

 

Tranh sơn dầu, Richardson chỉ ra, quan trọng vì nó cho phép ta giao tiếp những ý tưởng, nâng tầm chúng ta khỏi sự tàn bạo, và cho phép mỗi con người bộc lộ bằng chính phong cách của họ. Richardson còn được trích dẫn như người đầu tiên sử dụng cụm từ “phê bình nghệ thuật”. Trong tác phẩm “Essay on the Whole Art of Criticism” năm 1719 của ông, Richardson cố gắng xây dựng nền tảng để đánh giá nghệ sĩ hoặc một bức tranh, cũng như xác định độ nguyên bản của một tác phẩm nghệ thuật.

 

  1. Etienne La Font de Saint-Yenne (1688-1771)

Một trong những nhà phê bình nghệ thuật đầu tiên tại Pháp, Etienne La Font de Saint-Yenne đã đến thăm và viết báo cáo tại bảo tàng Louvre giữa thế kỷ 18. Trong bài luận 2009, Marijke Jonker thừa nhận những ảnh hưởng sâu rộng của ông đến với phê bình nghệ thuật. “Sau bài thuyết trình về nghệ thuật đương đại và xã hội đương thời,” cô viết, những tác phẩm của bảo tàng “trở thành chủ thể để phân tích phê bình, bắt đầu với những thể loại cao nhất của lịch sử hội hoạ. Cách tiếp cận có hệ thống này mở ra một khuôn khổ cho phê bình nghệ thuật trong suốt hơn một thế kỷ sau đó.”

 

La Font còn cống hiến nhiều hơn là cấu trúc để viết một bài phê bình nghệ thuật. Trong bài luận năm 2009 khác, Katerina Deligiorgi để ý thấy rằng từ thời Plato, các triết gia đã cân nhắc về tính nhân văn của nghệ thuật. Vào thời Khai sáng ở Pháp, La Font khát khao đưa góc nhìn cấp tiến của mình vào tác phẩm (một vài học giả cho rằng ông chỉ trích nhà vua trong những năm dẫn đến Cách mạng Pháp). Jonker, tuy vậy, không cảm thấy bị thuyết phục bởi những suy nghĩ chính trị cấp tiến của La Font. Theo cô, nhà phê bình đang đổ lỗi cho “sự suy đồi” của nghệ thuật do “sức ảnh hưởng lớn dần” của phụ nữ trong xã hội.

 

  1. Denis Diderot (1713-1784)

Louis-Michel van Loo, Portrait of Denis Diderot, 1767. Photo via Wikimedia Commons.

Denis Diderot:Sculpture, Fontes des Statues questres, Figure Equestre de Cire,

Getty Research Institute

Năm 1747, vào đỉnh cao của thời đại Khai sáng, Denis Diderot bắt đầu biên tập cuốn Encyclopédie tiếng Pháp trứ danh, nói về triết học, phê bình và khoa học. Qua đó, ông đề cập đến những đầu óc thiên tài như Jean-Jacques Rousseau, Jacques Necker, and Voltaire. Diderot còn cống hiến nhiều bài báo về văn học cũng như nghệ thuật. “Essay on Painting” của ông (viết năm 1765, xuất bản năm 1796) ảnh hưởng đến cả nhà thơ Charles Baudelaire (ông cũng là một nhà phê bình nghệ thuật) và học giả Johann Wolfgang von Goethe.

 

Diderot bắt đầu thăm thú viện bảo tàng Louvre vào năm 1759. Theo Thomas Crow, ông đã định giá các tác phẩm trong triển lãm mùa hè của bảo tàng, sau đó dành hàng tháng trời viết những bản phân tích của mình. Có lẽ vượt trội hơn những người tiền nhiệm, Diderot đã đưa vào tính cách riêng của mình vào trong những bài luận nghệ thuật. Ông không viết vì mục đích chính trị hay cho lợi ích của những nghệ sĩ khác, mà có lẽ, cho chính ông. Phong cách này mở ra sự chủ quan đến với thể loại phê bình.

 

  1. Johann Joachim Winckelmann (1717-1768)

Johann Joachim Winckelmann, Cover of Geschichte der Kunst des Altertums, 1764. Photo via Wikimedia Commons.

Anton Raphael Mengs, Portrait of Johann Joachim Winckelmann, ca. 1777. Photo via the Metropolitan Museum of Art

Nhà sử gia về nghệ thuật người Đức Johann Joachim Winckelmann khuyến khích sự trỗi dậy lòng hứng thú đối với nghệ thuật truyền thống trong thời đại Khai sáng. Trong bài luận năm 1765 “Reflections on the Painting and Sculpture of the Greeks” của ông, ông cho rằng: “Cách duy nhất để chúng ta trở nên tốt hơn, hoặc thậm chí độc nhất nếu có thể, là phỏng theo người Hy Lạp.” Làm việc tại Vatican (với tư cách một thủ thư, sau đó là chủ tịch hội đồ cổ, và cuối cùng là thư ký của hồng y giao chủ), Winckelmann được tiếp cận với bộ sưu tập đồ sộ về những kho báu cổ của Nhà thờ Thiên chúa giáo, và phát triển một hệ thống phân biệt từng thời kỳ khác nhau trong lịch sử nghệ thuật phương Tây mà vẫn được sử dụng đến tận ngày nay.

 

Đặc biệt, Winckelmann chưa bao giờ ghé đến Hy Lạp: Cuộc đời của ông sớm chấm dứt khi một kẻ lạ giết ông tại Ý vì lý do bí ẩn. “Trong thế giới học thuật châu Âu, hậu quả cái chết của Winckelmann cũng giống như cái chết của tổng thống Kennedy vào thời bấy giờ vậy,” Lionel Grossman khẳng định trong một bài luận 1992. Đây là một trong những bí ẩn không lời giải lớn nhất của giới phê bình nghệ thuật. Câu chuyện nhớp nhúa này đã dấy lên cảm hứng cho nhiều bài thơ, tiểu thuyết, và vở kịch.

 

  1. John Ruskin (1819-1900)

Herbert Rose Barraud, John Ruskin, 1885. Photo via Wikimedia Commons.

M. W. Turner:Mercury and Argus, before 1836

“J. M. W. Turner: Painting Set Free” at The J. Paul Getty Museum, Los

Một người sùng bái tranh phong cảnh của J.M.W. Turner, John Ruskin luôn tự hỏi về “sự thật” có ý nghĩa như thế nào trong hội hoạ. Ông xuất bản bộ 5 cuốn sách Modern Painters (1843-60), vinh danh nghệ thuật La Mã. Ruskin còn giúp gây dựng nền tảng di sản của Turner và chuyển tải những ý tưởng của ông sang dạng phê bình thuyết phục – những tác phẩm viết của ông khuyến khích người Anh chấp nhận nghệ sĩ, cùng những tác phẩm trừu tượng. Nhưng góc nhìn về nghệ thuật nhân văn của Ruskin cuối cùng cũng thua triết lý của những nhà thẩm mỹ vương quốc Anh như James Abbott McNeill Whistler, những người thích chủ nghĩa “nghệ thuật vị nghệ thuật” hơn. Sự thật là, theo họ, chẳng có hậu quả nào khi sáng tạo ra sản phẩm thẩm mỹ cả.

 

Hơn 1000 năm, con người đã cố gắng định nghĩa điều gì làm nên một tác phẩm nghệ thuật “tốt”.

 

Những nhân tố quyết định, như tính thực tế, vẻ đẹp, cách trang trí, ý tưởng nhân văn, đã đến rồi đi theo từng thời. Thế hệ nhà phê bình nghệ thuật mới đã thúc đẩy những biến chuyển đáng kể trong gu thưởng thức, và mãi mãi thay đổi cách nhìn của khán giả về những phong cách thẩm mỹ.

 

16 nhà phê bình dưới đây đã giúp diễn giải và hé mở những nghệ sĩ hứa hẹn có tầm nhìn sốc nổi, và đặt nền tảng cho nhận thức về các quy tắc. Danh sách này, phải thừa nhận rằng hầu như chỉ nói về người da trắng ở châu Âu và châu Mỹ. Hàng thế kỷ nay, họ đã áp đặt độc tài lên thế giới cách thưởng thức và trân trọng một tác phẩm nghệ thuật như thế nào. Nhiều tiếng nói phê bình đa dạng không chỉ đem đến những góc nhìn mới về nghệ thuật: Họ còn thay đổi cách ta nhìn thế giới, và vượt xa cả những bức tranh.

 

Tác giả: Alina Cohen

 

  1. Guillaume Apollinaire (1880-1918)

Jean Metzinger, Etude pour le portrait de Guillaume Apollinaire, 1911. Photo via Wikimedia Commons.

Guillaume Apollinaire, 1902. Wikimedia Commons.

Được biết đến nhiều nhất như một nhà thơ cấp tiến, Guillaume Apollinaire còn nổi tiếng trong giới nghệ thuật hiện đại. Cụ thể, ông ủng hộ những nghệ sĩ trường phái Lập thể là bạn mình như Pablo Picasso, Juan Gris, và Georges Braque rất nhiều trước khi họ được công chúng chấp nhận. Trong bài luận năm 2003, Pamela A. Genova kết nối kỹ thuật chắp vá của các hoạ sỹ với các đoạn của nhà thơ. Apollinaire xác định, Pamela viết, với “sự sắp đặt giữa thực tế và tưởng tượng, và sự song hành của chuyển động không gian và thời gian.” Apollinaire viết lời tựa cho các catalogue bảo tàng, cũng như các bài viết, The Cubist Painters, đã giúp khẳng định vị thế của họ trong lịch sử.

 

  1. Walter Benjamin (1892-1940)

Thẻ thành viên của Walter Benjamin ở Bibliothèque nationale de France, 1940.

Bài luận năm 1935 của Walter Benjamin“The Work of Art in the Age of Mechanical Reproduction” đặt nghệ thuật trong một bối cảnh kinh tế – xã hội lớn hơn. Ông nói rằng dù con người sáng tác ra nghệ thuật, họ cũng “copy” chúng – in ấn, sao chép lại phong cách của các bậc lão làng, hoặc tái sử dụng khuôn đúc cũ. Cũng như trong thời hiện đại, nhiếp ảnh và điện ảnh có thể bắt trọn thế giới tốt hơn bất cứ hình thức nghệ thuật truyền thống nào. Vậy tại sao hội hoạ và điêu khắc vẫn có giá trị? Benjamin cho rằng điều thật sự khiến một tác phẩm nguyên bản có giá trị là điều không thể chạm được. “Thậm chí tác phẩm sao chép hoàn hảo nhất,” ông viết, “cũng thiếu một yếu tố: sự hiện hữu trong không gian và thời gian, sự tồn tại độc nhất tại không gian mà nó sinh ra.” Sau Benjamin, thật khó để không kết nối một tác phẩm đến với bối cảnh rộng lớn mà nó được hình thành nên.

 

  1. Harold Rosenberg (1906-1978) và Clement Greenberg (1909-1994)

Elaine de Kooning:Harold Rosenberg #2, 1956

Forum Gallery

Clement Greenberg, 1977. Ảnh bởi Kenn Bisio cho The Denver Post, lấy từ Getty Images.

Nhà phê bình cho số báo hằng quý Partisan Review và sau đó là The New Yorker, Harold Rosenberg có lẽ nổi tiếng nhất vì phát minh ra cụm từ “hội hoạ chuyển động”. Cùng với Clement Greenberg, ông đã nâng tầm cho trường phái Biểu hiện Trừu tượng, hàm chứa chuỗi những động tác (hoặc chuyển động) của con người để đưa vào bức tranh. Ông đặc biệt là người hâm mộ của Willem de Kooning, trong khi Greenberg thích Jackson Pollock hơn.

 

Greenberg, về phần mình, viết cho The Nation và Artforum, đã cống hiến cách tiếp cận đanh thép của mình với nghệ thuật. Trong tác phẩm của mình, ông nói trừu tượng là tàn cục, và bối cảnh chính trị và xã hội của nghệ thuật là không cần thiết. Trong cuốn sách năm 1975 The Painted Word, Tom Wolfe viết: “Greenberg không tạo ra danh tiếng cho Pollock, nhưng ông ấy là giám tuyển, người trông nom, đánh bóng, sửa chữa danh tiếng ấy, và ông cực kỳ xuất sắc trong việc đó.” Một nhà phê bình, Wolfe thêm vào, có thể trở thành người quảng cáo tốt nhất cho nghệ sĩ.

 

  1. Linda Nochlin (1931-2017)

Philip Pearlstein, Portrait of Linda Nochlin, 2010. Quyển sở hữu của nghệ sĩ và Betty Cuningham Gallery.

Tiểu luận có tầm ảnh hưởng năm 1971 “Why Have There Been No Great Women Artists?” của Linda Nochlin đã đưa ra một lý do đơn giản cho câu hỏi tiêu đề. Ngành này đầy rẫy nghệ sĩ nam không phải vì họ giỏi hơn, mà vì hệ thống học viện đã ngăn cản phụ nữ tiến lên trong lĩnh vực này. Nochlin cho rằng, trong hàng thế kỷ, “nghệ thuật tốt” hầu như chỉ được giám định bởi người da trắng. Tiểu luận của bà dấy lên sự kêu gọi thay đổi. Nochlin là một tác giả lẫy lừng, và trong suốt sự nghiệp của mình, bà viết tiểu luận về những nữ nghệ sĩ như Louise Bourgeois, Mary Cassatt, và Sophie Calle, cùng nhiều người khác nữa.

 

  1. Lucy Lippard (1937-)

Từ lúc bắt đầu sự nghiệp, Lucy Lippard đã phê bình về sự phân biệt giữa nghệ thuật và những vấn nạn đời thường. Không như Greenberg and Rosenberg, bà hứng thú trong việc lật mở bối cảnh xã hội rộng lớn hơn nơi các tác phẩm nghệ thuật được tạo lập. Năm 1977, bà đồng sáng lập báo nghệ thuật theo chủ nghĩa nữ quyền Heresies. Đối với Lippard, nghệ thuật và hoạt động cộng đồng có thể kết nối với nhau. Tập hợp các nghệ sĩ nữ đã đóng góp cho tờ báo – một nhóm bao gồm Joan Snyder, Miriam Schapiro, và Pat Steir — gần đây đã được đại diện cho phụ nữ để xuất hiện trên trang báo.

 

  1. Rosalind Krauss (1940-)

Nhà biên tập và học giả tiếng tăm Rosalind Krauss đã được đẩy đến thế giới nghệ thuật nổi tiếng vào năm 1974, khi bà xuất bản bài báo về Art in America nhắm vào nhà phê bình hống hách Clement Greenberg vì đã hạ thấp di sản của điêu khắc gia David Smith. Krauss đã tạo nên danh tiếng cho chính mình như một người đề xướng cho khởi đầu của các nghệ sĩ trường phái Tối giản. Năm 1976, bà đồng sáng lập October, một tờ báo có tầm ảnh hưởng và nặng tính lý thuyết, giới thiệu về ý tưởng cô đặc của chủ nghĩa hậu Cấu trúc của những nhà tư tưởng Pháp như Jacques Derrida và Michel Foucault đến với độc giả nghệ thuật Mỹ.

 

  1. Jerry Saltz (1951-)

Jerry Saltz tại Mad Masterly Tour Of The Broad của Jerry Saltz trong khuôn khổ Vulture Festival LA,

được giới thiệu bởi AT&T tại The Broad vào 18 tháng 11, 2017, Los Angeles, California.

(Ảnh bởi John Sciulli/Getty Images cho Vulture Festival)

Jerry Saltz, người đã giành giải Pulitzer hạng mục phê bình, đã tách biệt mình với thành phần giới phê bình học thuật tinh tuý, tôn sùng lý thuyết: Một người thèm khát sử dụng mạng xã hội, ông không sợ những nội dung nhạy cảm (những người tham gia Burning Man chẳng hạn, được cho là “Fauxhemians”), và hoàn toàn khiêu khích (Saltz nói về vụ trốn thuế của Mary Boone: “Nếu cô ấy có nhiều quyền lực hơn…Tôi nghĩ điều đó khá tuyệt”). Ông viết cho tạp chí New York với một tông giọng thân thiện, vui vẻ về những chủ đề từ các triển lãm đáng xem cho đến các buổi đấu giá nghệ thuật, cho đến Salvator Mundi (bức chân dung mới xuất hiện gần đây của Leonardo da Vinci).

 

Nguồn: artsy

 


-----------------***---------------
Hướng dẫn cách tải về (dowload): http://khodohoa.vn/hot-trend/huong-dan-cach-tai-ve-tai-nguyen-tren-web.html
-----------------***---------------

Previous picture Next picture Close gallery